UỶ BAN NHÂN DÂN
XÃ THIÊN PHỦ
|
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
|
Thiên Phủ, ngày 24 tháng 03 năm 2025
LỊCH SỬ
hình thành và phát triển của
Mường Khăng - xã Thiên Phủ
I. Đặc điểm tình hình chung
1. Vị trí địa lý
Xã Thiên Phủ là một xã vùng cao nằm trên trục Quốc lộ15C cách trung tâm hành chính huyện 30 km về phía Tây.
- Phía Đông và phía Nam giáp xã Nam Động
- Phía Tây giáp xã Hiền Chung và xã Sơn Thủy, huyện Quan Sơn
- Phía Bắc giáp Khu Bảo tồn Thiên Nhiên Pù Hu và xã Nam Tiến
Gồm có 07 thôn bản tổng diện tích tự nhiên là: 5.448,11ha Tổng số hộ 798 hộ, tổng số khẩu 3.730 khẩu, trong đó: Hộ nghèo theo chuẩn mới là: 54 hộ = 6,52%, Hộ cận nghèo: 154 hộ = 19,30 %, có 3 dân tộc anh em chung sống trong đó: Dân tộc Thái chiếm 85%, dân tộc Mường 10%, dân tộc Kinh 5%
,
sống
xen kẽ, đoàn kết, mỗi dân tộc đều có truyền thống văn hóa riêng tạo nên những nét văn hoá đặc trưng, đa dạng, phong phú giữa các dân tộc có nhiều nét tương đồng về phong tục, tập quán, truyền thống, đạo lý uống nước nhớ nguồn, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam.
+ Thu nhập bình quân đầu người năm 2024 là 38,13 triệu đồng/người/năm.
- C
ó
hai dòng suối chủ yếu là suối khiết và suối Cang.
- Suối Khiết
; theo tiếng dân tộc thái (
có nghĩa là nặm khuyết (khuyết là con nhái), đầu nguồn là vũng khuyết
bắt nguồn từ nước bạn Lào chảy qua
xã Hiền Kiệt, Hiền Chung và 4 bản của xã Thiên Phủ là;
bản Sắng,
bản Chong
,
bản Sài
,
bản Dôi
sau đó đổ ra sông Luồng, chiều dài
chạy qua xã 6,4
km, lòng suối hẹp, trước đây
nhân dân
trong xã thường xuôi bè luồng đi ra sông luồng và giao thương hàng hoá với các xã Nam Động, Nam Tiến, Nam Xuân và Thị Trấn hồi xuân
.
- Suối Cang;
theo tiếng dân tộc thái
(có nghĩa là lượng nước lúc nào cũng vừa
, lưng lưng
).
Do hai con suối nhỏ tạo thành, là suối Khăng và suối cai, suối nhỏ này
bắt nguồn từ chân đồi pù Khăng chạy đến đầu nhóm Dồi thì tạo thành suối Cang, suối Cang chạy từ đầu nhóm Dồi chạy qua bản Lớt Dồi, bản Hàm, bản Háng và nhóm Na sao của bản Chong, sau đó đổ ra suối khiết, suối có chiều dài là 9,8km. Ngoài ra còn nhiều suối nhỏ chảy từ Tây sang Đông, từ đông sang nam rồi chảy ra suối Khiết.
2.
Về khí hậu.
Thiên Phủ có khí hậu đặc trưng của miền Tây tỉnh Thanh Hoá, chịu ảnh hưởng của 2 loại gió. Gió Tây Nam về mùa hè (còn gọi là gió Lào) xuất hiện vào tháng 4,5,6 mang theo luồng khí khô, nóng và gió Đông Bắc về mùa đông xuất hiện vào tháng 11,12 và tháng 1,2 năm sau gây ra cái lạnh rét, buốt. bên cạnh đó còn có sương muối và mưa phùn kéo theo.
Lượng mưa ở đây phân bổ không đều, được phân thành 2 mùa rõ rệt . mùa m
ư
a từ tháng 5 đến tháng 10 thường gây ra lũ quét, lũ ống. Mùa khô từ tháng 11 cho đến hết tháng 5 năm sau, gây ra khô hạn, thiếu nước tưới tiêu.
Thiên Phủ là xã có diện tích nông, lâm nghiệp lớn, nhưng
cùng là xã nghèo của huyện
,
là xã
được hưởng chính sách theo
chương chình 135
trước đây và các chương trình mục tiêu quốc gia hiện nay
của Chính Phủ
,
rừng có nhiều loại gỗ quý như rỗi, lim...
,
thế mạnh kinh tế của xã là cây luồng, nứa, vầu được coi là
cây kinh tế
mũi nhọn để phát triển kinh tế hộ gia đình
.
II. Lịch sử hình thành và tên gọi Mường Khăng
.
1.
Lịch sử hình thành và tên gọi.
- Với những dãy chỉ núi đá vôi dày đặc còn lại cùng các tài liệu thành văn còn lưu giữ được. Từ rất sớm trên vùng đất Thiên Phủ đã có con người sinh sống và lập nghiệp, chủ yếu là dân tộc Thái đã khai hoang, khẩn hoá những vùng đất rậm rạp, núi non hiểm trở bồi đắp thành những bản làng. Các dòng họ đã có mặt ở đây ngay từ buổi đầu là. Họ Hà, họ Vi...
- Đồng bào dân tộc Kinh đến sinh sống ở Thiên Phủ từ ngày cả nước tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 - 1954) và sau những năm hoà bình lập lại, chủ yếu nhân dân quê ở Thiệu Hoá, Hậu lộc thực hiện nhiệm vụ đem chữ lên vùng cao, đi xây dựng kinh tế mới, sống tập trung chủ yếu ở bản Chong. Cho đến nay 3 dân tộc anh em Thái, mường, Kinh đã cùng chung sống gắn bó, đoàn kết trên địa bàn xã.
Từ năm 1945 trở về trước tổ chức gia đình của người Thái - Mường Thiên Phủ vẫn mang tính chất gia tộc - Mẫu hệ. Dù đã nhiều tuổi đã có vợ con nhưng còn bố mẹ thì con cháu trong gia đình vẫn phải xum họp cùng một nhà. nhiều thế hệ bởi thế có gia đình 2,3 thế hệ khoảng hơn 10 người sống chung trong một ngôi nhà.
Người dân Mường Khăng sống thật thà chất phác, tôn kính tổ tiên, ông, bà và hiếu nghĩa. Trong giao tiếp sinh hoạt mềm mỏng hiền hòa. Tục ngữ Thái ở đây có câu “ đánh con dùng đôi mắt - đánh chó mới dùng roi” .
Người Thái có ngôn ngữ và hệ thống chữ viết lâu đời. Trước cách mạng tháng 8 năm 1945 Người Thái chủ yếu dùng ngôn ngữ và chữ viết riêng của dân tộc mình, trên tất cả các văn tự đều sử dụng chữ Thái. Cho đến nay ngôn ngữ Thái vẫn được bảo tồn sử dụng trên địa bàn xã. Người dân ở đây luôn phát huy truyền thống yêu nước, yêu quê hương bản làng có tinh thần tương thân tương ái cần cù trong lao động sản xuất, đoàn kết gắn bó.
-
Mường Khăng xưa kia có địa giới. Phía Đông và Nam giáp mường Tuồng;
phía Bắc giáp mường Khiết của huyện Quan Hóa; phía Tây giáp mường Xia
của huyện Quan Sơn
.
-
Về tên gọi mường Khăng
:
1.
Lưu truyền trong dân gian
,
truyện kể,
từ nhiều thế hệ cho đến nay
.
-
Thuở
xưa từ khoảng thế kỷ thứ XIII, người dân cư trú ở đây chưa nhiều, nhưng cũng
đã lập
thành các bản nhỏ. Họ nương tựa vào nhau chống lại thiên tai, thú dữ,
để làm ăn.
Thế kỷ XV, giặc Minh xâm lược nước ta chúng đã đàn áp bóc lột nhân dân ta. Ở Quan hóa thổ ty Lò Khăm Ban đã chiêu mộ nghĩa quân tập hợp dưới ngọn cờ của anh hùng dân tộc Lê Lợi đánh đuổi giặc Minh, cuộc khởi nghĩa đã giành thắng lợi hoàn toàn vào năm 1427. Lò Khăm Ban được phong chức thượng tướng quân và cấp đất đai bổng lộc rất lớn. Sau đó người dân từ các Mường khác trong Châu Quan Hoá và một số dân từ Mường khác ngoài châu Quan Hoá (Mường Pi) đến khai khẩn đất đai sinh sống, khi đến vùng đất này, thời kỳ này tư liệu sản xuất của người dân còn thô sơ, đất đai cằn cọc, nhiều vùng đất trống, các đồi, núi không có cây, (đồi và đất không có cây to, không thành rừng ở trên đất chỉ có cỏ chanh), (có nghĩa là nhá kha) từ những khó khăn đó, nên người dân gọi là Căng kha (nghĩa là nặng, khó khăn trong sản xuất). Căng kha (có nghĩa là Khăng) từ đó người dân đặt tên là “Mường Khăng” và tên “Mường Khăng” được hình thành và phát triển cho đến nay.
2. Các truyền thuyết/ truyện kể/sự tích/ sự kiện có liên quan đến lịch sử hình thành.
- Mường Khăng; gồm Khăng Nóc và Khăng cuông (thuộc tổng Đặc Kiệt) (tổng có nghĩa là cụm) gồm: 6 bản của xã Bất Thiên và xã bất phạt.
- Khăng Nóc gồm: Bản Sài, bản Sắng, bản Chong (gọi xã Bất Thiên).
- Khăng cuông gồm: Bản Háng, bản Hàm, bản Giồi (gọi xã Bất Phạt)
- Dưới Mường là các bản, Mường có quan lang gọi là Phó Tạo mường, là người có quyền cao nhất trong Mường rồi đến Quan bản. Trung tâm điều hành và quản lý xã hội là “ Chiềng”, “Mường Khăng” chỉ có duy nhất là xã Thiên Phủ.
Lúc này vẫn duy trì hệ thống quản lý Mường, (Mường Khăng không có tạo mường, vì lúc ấy không có họ phạm), vậy Phó Tạo Mường là người điều hành chung, dưới Mường có bản. Mường vừa là khu vực địa lý, vừa là một đơn vị hành chính, một thể chế xã hội vừa có tính chất dòng họ và gia đình. Mỗi Mường rộng, hẹp tùy theo số dân và mỗi bản có một vị quan cai quản hay còn gọi là quan Bản, quan bản nằm dướ sự điều hành của Phó Tạo Mường, (thời điểm này gồm có Quan Háng, Quan Hàm, Quan Lớt, quản lý các bản ở Khăng Cuông, quản lý các bản ở Khăng Nóc, ông Lý Sài, ông Lý Sắng). Bản là đơn vị cuối cùng trong tổ chức xã hội ở huyện Quan Hóa lúc bấy giờ, ngoài những bản bình thường do Mường trực tiếp quản lý còn có các bản “
Thín
”, (nghĩa là người dân từ nơi khác đến lập bản, sinh sống theo nhóm)
Là vùng đất giàu truyền thống văn hóa, lịch sử và cách mạng. Nhân dân các dân tộc địa phương có tinh thần đoàn kết, yêu thương đồng loại, yêu quê hương, bản làng, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ quê hương, đất nước; trong lao động nhân dân xã Thiên Phủ có tính cần cù và sáng tạo Ngay từ buổi đầu sơ khai, con người có mặt trên mảnh đất này đã phải vật lộn với thiên nhiên khắc nghiệt, với thú dữ, giặc ngoại xâm, áp bức bóc lột, cường quyền để tồn tại và phát triển.
Thế kỷ XV, giặc Minh xâm lược nước ta chúng đã đàn áp bóc lột nhân dân ta. Ở Quan hóa thổ ty Lò Khăm Ban đã chiêu mộ nghĩa quân tập hợp dưới ngọn cờ của anh hùng dân tộc Lê Lợi đánh đuổi giặc Minh cuộc khởi nghĩa đã giành thắng lợi hoàn toàn vào năm 1427. Lò Khăm Ban được phong chức thượng tướng quân và cấp đất đai bổng lộc rất lớn. Bia đá xã Hồi Xuân cũng như gia phả họ Phạm Bá ở Pọng Chiềng còn ghi công lao của ông trong việc khai khẩn đất đai lập ra Mường Ca Da.
Đến những năm đầu thế kỷ XX, phong trào yêu nước của nhân dân ta nói chung và ở tỉnh Thanh Hóa đã bùng lên mạnh mẽ, song các phong trào đấu tranh của nhân dân ta do không có đường lối lãnh đạo đúng đắn nên bị bế tắc thất bại, đòi hỏi bức thiết cần có một chính Đảng lãnh đạo.
Do bị bóc lột, đàn áp dã man nên nhân dân liên tiếp nổi dậy chống lại thổ ty, lang đạo, tàn ác. Mặc dù các cuộc đấu tranh bị thất bại do thiếu đường lối lãnh đạo đúng đắn , nhưng qua đó đã thể hiện long dũng cảm, tinh thần yêu nước nồng nàn của nhân dân địa phương đồng thời cho thấy mâu thuẫn sâu sắc giữa nhân dân với địa chủ phong kiến, thổ ty lang đạo và thực dân phong kiến.
3. Văn hóa - xã hội
(những nét xưa và nay đang còn lưu giữ)
Cùng với truyền thống lao động cần cù, nhân dân các
dân tộc Thiên Phủ luôn chú trọng xây dựng nếp sống vănhóa và tính cộng đồng cao. Phần lớn cư dân là người
Thái,
người Mường với những nét đẹp văn hóa vật thể và phi
vật thể đã tạo nên truyền thống văn hóa đậm đà bản sắc
như. nhảy sạp, hát khặp, khua lóng, khèn bè, pí một ..
trong các dịp lễ tết của địa phương.
Dân tộc Thái chiếm đa số, có truyền thống lịch sử,
văn hóa, chữ viết riêng. Do đó cộng đồng dân tộc Thái đã
có nhiều tác phẩm như.
“
Sắng chụ sốn
g
Sáo
,”
(tiễn dặn người
yêu) Khún lu nang úa
,
(chàng lú nang úa)
quân
quán húa
mương (chuyện bản mường). Trong đời sống tinh thần
nhân dân địa phương không thể thiếu khặp, khặp là lối
ngâm thơ hoặc hát theo lời thơ.
Là một dân tộc có lịch sử cư trú lâu đời, người Thái
không chỉ có đời sống kinh tế - xã hội ổn định và phát
triển mà còn có đời sống văn hóa tinh thần phong phú,
sinh động.
Dân tộc Thái nơi đây có bộ nhạc cụ phong phú về thể
loại, được chế tạo bằng những chất liệu khác nhau có sẵn
trong tự nhiên, đó là Khèn bè, Sáo ôi, Pí một…
*
Về trang phục truyền thống.
Trong sinh hoạt và lao
động hàng ngày, nam giới mặc áo cánh ngắn, xẻ ở ngực;
quần xẻ đũng, áo nam cổ tròn, không có cầu vai, có cúc
cài bằng xương hoặc tết băng vải. Quân áo màu chàm
xanh chàm đen, nhưng vài chục năm trở lại đây nam
giới đã chuyển sang mặc âu phục là chủ yếu.
Phụ nữ Thái hiện nay trong các ngày lễ, hội vẫn gắn
bó với trang phục truyền thống áo cong (
áo
cóm) màu trắng
, xanh
hoặc đen
…
bó sát thân, váy dài đen quấn suông hoặc thêu viền hoa
văn ở gấu váy.
Trang phục hàng ngày ăn mặc giống người Kinh để
phù hợp với môi trường, công việc đồng áng và lên rừng
phát nương làm rẫy ...
*
Về ẩm thực.
Cùng với việc bảo tồn và phát huy các
giá trị văn hóa tinh thần thông qua việc thường xuyên tổ
chức các lễ hội, mặc trang phục truyền thống hàng ngày,
cơ cấu
bữa ăn truyền thống chủ yếu là “cơm, rau, cá” món
ăn truyền thống và xuyên suốt bữa ăn của cộng đồng cư
dân nơi đây là cơm đồ (cơm nếp), củ sắn, củ mài, hạt kê, ngô...
- Rượu: rượu cần làm bằng sắn.
-
Các loại canh
gồm có, canh
môn
, canh
lá ráy
,
canh rêu,
canh uôi...
-
Gia vị
chính
thức ăn của
người Thái, người Mường là ớt, muối, gừng, xả
và mắc khén.
*
Quan niệm về thế giới tâm linh
;
người Thái nơi đây
có quan niệm thờ thiên thần, họ thờ thần lửa, thần sông,
thần núi ... tất cả các hoạt động trong đời sống hàng ngày
đều xuất hiện một vị thần nắm giữ linh hồn. Người Thái
chọn ngày tốt, tránh ngày xấu bằng lịch vạn sự với 8 loại
ngày
(đọc theo tiếng dân tộc)
. Kim xa, xướm xa, cân xa, khóa ngang, cân cóng,
xướm cong, kim cong, khóa hó. Từ đó có nhưng ứng
xử tương ứng. Và giữ tục thờ cúng tổ tiên. Đối với người
chết, họ quan niệm là tiếp tục “sống” ở thế giới bên kia vì
vậy đám ma là lễ tiến người chết về với “mường trời"
(nghĩa là khấn mường phả)
.
Văn hóa bản làng đã gắn kết người dân nơi đây nêu
cao truyền thống đoàn kết đùm bọc lẫn nhau trong “tình
làng, nghĩa xóm” góp phần xây dựng nếp sống phù hợp về
giá trị thẩm mỹ, văn hóa, đồng thời nó mang
theo những giá trị lịch sử của tộc người
thái
nói riêng và của
các dân tộc khác nói chung.
* Những địa danh, tên gọi gắn liền với sử hình thành của Mường Khăng
.
- Pha đống, Nà đống, Piềng phồ thuộc bản Dôi, pù bó, Pù ắn, thuộc bản Sài, pha Long, Na Chiềng, Cánh sao thuộc bản Chong, pù sắng, pù xông thuộc bản Sắng, Pù Lúm thuộc bản Háng, Hàm, Lớt Dồi, pù Mó bản Hàm, Hang lực, pù Khoai, pù Khăng thuộc Lớt Dồi…
4. Tên gọi hiện nay
. xã Thiên Phủ Tên gọi theo tiếng dân tộc Thái, Ý nghĩa của tên gọi "Trời phù hộ" hay nghĩa khác là sự giao thoa giữa trời và đất. Đặt tên là xã Thiên Phủ vì nhân dân luôn mong muốn trời đất mưa thuận, gió hòa để mùa màng được bội thu.
Từ khi được thành lập xã có 6 bản gồm. bản Háng, bản Hàm, bản Giồi, bản Sài, bản Sắng, bản Chong, đến năm 1961 bản Dôi từ xã Nam Động (Mường Tuồng) sáp nhập vào xã Thiên Phủ, sau một thời gian các bản lại được được chia tách như sau, Bản Giồi chia tách thành 2 bản là bản Giồi và bản Lớt. Bản sắng chia tách thành 2 bản là bản Sắng và bản Thành Long, bản Sài được chia tách thành bản Sài 1 và Sài 2, bản Háng được chia tách thành bản Háng và bản Nhụng.
Từ tháng 8 năm 2018, thực hiện Nghị quyết số
106/NQ-HĐND ngày 11 tháng 7 năm 2018 của Hội đồng nhân dân tỉnh về đổi tên; chuyển thôn thành khu phố; sáp nhập để thành lập thôn, tổ dân phố tại xã, phường, thị trấn thuộc các huyện, thị xã, thành phố trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa;
Theo quyết định số 3110/QĐ-UBND ngày 17 tháng 8 năm 2018 của UBND tỉnh Thanh Hoá V/v đổi tên; chuyển thôn thành khu phố; sáp nhập để thành lập thôn, tổ dân phố tại xã, phường, thị trấn thuộc các huyện, thị xã, thành phố trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa; xã Thiên được sáp nhập từ 11 bản xuống còn 7 bản, củ thể, bản Lớt, bản Giồi được sáp nhập thành bản Lớt Dồi, bản Háng, bản Nhụng được sáp nhập thành bản Háng, bản Sắng, bản Thành Long được sáp nhập thành bản Sắng, bản Sài 1, Sài 2 được sáp nhập thành bản Sài.
Xã Thiên Phủ hiện nay
gồm 07 bản, các làng, bản phân thành 2 khu, khu trong và khu ngoài.
Khu trong gồm. Bản Háng, bản Hàm, bản Lớt Dồi, nằm dọc theo suối Cang và trục đường Na sao - Lớt Dồi.
Khu ngoài gồm; Bản Sắng, bản Chong, bản Sài và bản Dôi, nằm dọc theo suối Khiết và quốc lộ 15C đi lên huyện biên giới Mường Lát
. Thiên Phủ đã có một quá trình lịch sử hình thành và phát triển cộng đồng dân cư làng xã lâu đời. Trong đó họ Hà là dòng họ đông nhất.
III. Sự phát triển của Mường Khăng và xã Thiên Phủ từ cách mạng tháng Tám năm 1945 đến nay.
1. Truyền thống trong lao động
xưa
(phát triển kinh tế)
N
gười dân nơi đây đều có bản
chất của người lao động cần cù, chịu thương, bằng bàn tay
lao động và óc sáng tạo, những cư dân, dòng họ nơi đây
đoàn kết một lòng khai khẩn đất đai trở thành vùng đất
tươi tốt của những cánh rừng, đồi luồng xanh thẳm.
Nước và ruộng là hai điều kiện cần và đủ để cư dânngười Thái sinh sống một cách ổn định: “Tắng chặng
kin pá, phứa na kín kháu” có nghĩa là “Chặn nước ăn
cá, làm ruộng ăn cơm và làm nương dưới chân đồi núi
đá, làm ruộng dưới chân bản” và con trâu là loại gia súc
chủ đạo.
Kinh tế nương rẫy chủ yếu là quảng canh, xen canh
và du canh, đồng bào Thái ở Thiên Phủ rất chú trọng đến
hạt giống, hầu như các giống lương thực ở các dân tộc
khác đều được gieo trồng nơi đây.
a. Trước cách mạng tháng 8 năm 1945 và trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mĩ đến năm 1975.
Chăn nuôi
.
Người Thái ở Thiên Phủ chủ yếu là nuôi
các giống gia cầm, gia súc truyền thống như trâu, bò, lợn,
gà, cá, lợn
đen
, dê ... hình thức nuôi chủ yếu là thả
rông, chăn nuôi hộ gia đình
chưa
xuất hiện mô hình
nuôi trang trại vừa và nhỏ.
Thủ công nghiệp
. Nghề đan lát
thông thường dành cho nam giới, nhất là cho những
người già, họ dùng tre, dây rừng và dây mây nhiều loại
trong những ngày mưa dai dẳng, đan những cái rọ nhỏ
đeo ở thắt lưng để bắt cá trong ruộng nước, những cái
nia, cái sàng để xảy gạo nấu cơm".
Ngoài ra do đặc thù nhà sàn nên người đàn ông Thái
thành thạo trạm trổ những hoa văn được gọt đẽo tinh xảo,
đan lát thông thường dành cho nam giới họ dùng tre, bầu, đan các dụng cụ gia đình để sử dụng đựng lúa, bế, giỏ…vv còn nữ giới thì trồng bông, dệt vải, dệt thổ cẩm, thêu khăn piêu.
Về buôn bán
.
Trước đây do vị trí địa lý, địa hình của
Thiên Phủ đi lại khó khăn phức tạp. Ở các bản làng, đầu
thế kỷ XX .... người Mường, người Thái đến chợ hàng
đoàn dài, phụ nữ vai gánh cau, thóc, ngô, trán thắt dây
gùi đi lom khom, đàn ông thường tự hào với con dao phạt
bên hông, đôi khi diện hơn với cái ô vải xanh; ở Hồi
Xuân, Phong Ý và chợ Mèn, từ sáng sớm những ngày
phiên chợ, người Mán (Dao) đã từ trên núi cao, về mùa
Đông, họ mang theo những quả bí đao dài, gừng, khoai
lang và ngồi vào một góc chợ.
- Trước đây
, hệ thống chợ ở đây vẫn hết sức tẻ nhạt do
cư dân sống thưa thớt, địa bàn chia cắt, đường xá đi lại
khó khăn, đời sống nhân dân chưa phát triển, vì thế chưa
kích thích hình thành và phát triển trung tâm mua bán trên
địa bàn.
b. Giai đoạn từ 1975 đến nay
1.Từ năm 1975
đến
năm 1979
- Trong khoảng thời gian này, nhân dân xã thiên Phủ cùng với cả nước thực hiện một trong những nhiệm vụ đấu tranh chống quân xâm lược biên giới (Khơme Đỏ và Trung Quốc).
2. Từ năm 1976 đến năm1986
- Về kinh tế:
Cả nước nói chung, nằm trong bối cảnh
thời bao cấp
, đây là giai đoạn áp dụng mô hình kinh tế cũ ở miền Bắc cho cả nước sau khi thống nhất và đồng thời là giai đoạn của những tìm tòi để thoát khỏi mô hình này. Đây là thời kỳ của 2
kế hoạch 5 năm
1976-1980 và 1981-1986.
3.Từ năm 1986 đến năm 1995
Trong suốt quá trình chuyển mình từ một nền kinh tế lạc hậu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường hiện đại định hướng xã hội chủ nghĩa, Việt Nam đã vươn lên thành một điểm sáng tăng trưởng trong khu vực và trên thế giới với nhiều thành tựu đáng ghi nhận. Nền kinh tế không chỉ tăng trưởng về quy mô mà chất lượng tăng trưởng cũng được cải thiện, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện đáng kể.
-
Về nông nghiệp
- Sản xuất trên địa bàn xã có sự khởi sắc từ khi thực hiện Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 05 tháng 04 năm 1988 (gọi là khoán 10 ra đời).
- Thực hiện khoán 10 cùng với sự đổi mới toàn bộ cơ chế quản lý kinh tế nông nghiệp, đổi mới hoạt động kinh tế - xã hội ở nông thôn, chức năng kinh tế của hộ nông dân được xác lập trở lại. Hộ nông dân thực sự được làm chủ tư liệu sản xuất và quá trình sản xuất. Với những ưu việt, Nghị quyết 10 đã khơi dậy tiềm năng to lớn trong từng hộ gia đình nông dân. Từ chỗ không thiết tha đến ruộng đất, nông dân đã có ý thức chăm sóc, sử dụng đất đai hiệu quả hơn. Thời điểm này các hộ nông dân trên địa bàn xã còn bỏ công sức để khai phá các vùng đất hoang hóa, đưa vào sản xuất.
4. Từ 1995 đến nay
a. Thực hiện các chính sách của Đảng, nhà nước.
- Giai đoạn.
Thực hiện Quyết định số 135/1998/QĐ-TTg ngày 31 tháng 07 năm 1998 của thủ Tướng Chính phủ V/v phê duyệt Chương trình phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn, vùng sâu, vùng xa.
- Trên địa bàn xã có nhiều khởi sắc về bộ mặt kinh tế-xã hội, nổi bật là cơ sở hạ tầng trên địa bàn xã được đầu tư như; điện, đường, trường, trạm, nước sinh hoạt cộng đồng, Thuỷ lợi tưới tiêu… (
Thiên Phủ nằm trong 1000 xã đặc biệt khó khăn của cả nước)
-
Giai đoạn.
Thực hiện Nghị quyết số 30a/2008/NQ-CP ngày 27/12/2008 Nghị quyết
Về Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 61 huyện nghèo và 797 xã thị trấn, từ nghị quyết này đi vào cuộc sống nhân dân trên địa bàn được thủ hưởng các cơ chế chính sách dặc thù như khoán bảo vệ rừng,
hỗ trợ sản xuất, tạo việc làm, tăng thu nhập, hỗ trợ
chính sách giáo dục, đào tạo, dạy nghề, nâng cao dân trí, chính sách, cơ chế đầu tư cơ sở hạ tầng ở cả thôn, bản, xã và huyện. Từ đó cơ sở hạ tầng, đời sống của nhân dân tầng bước được nâng lên.
-
Giai đoạn thực hiện 3 chương trình môi trường Quốc gia là;
Quyết định
Số. 1719/QĐ-TTg
ngày 14/10/2021 về
phê duyệt chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2030, giai đoạn. từ năm 2021 đến năm 2025
, Quyết định số 90/QĐ-TTg ngày 18 tháng 01 năm 2022 của Thủ tướng chỉnh phủ về phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo nhanh và bền vững giai đoạn 2021-2025, Quyết định số 263/QĐ-TTg ngày 22 tháng 02 năm 2022, phê duyệt chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021 - 2025
.
- Việc triển khai thực hiện các chương trình đã đóng góp tác động rất lớn đến quá trình phát triển kinh tế-xã hội, thay đổi diện mạo nông thôn, đặc biệt là với kết cấu hạ tầng xã hội, hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng kinh tế đã được quan tâm đầu tư đồng bộ, đáp ứng yêu cầu quá trình phát triển và hiện đại hóa nông thôn; đời sống của người dân được nâng lên; thu nhập bình quân đầu người hằng năm đều tăng, tỉ lệ hộ nghèo giảm dần qua các năm.
- Công tác lồng ghép, huy động các nguồn lực trong triển khai thực hiện 3 chương trình đã tạo động lực và huy động được toàn bộ nguồn lực xã hội cho quá trình phát triển và triển khai thực hiện, tạo sự đồng thuận cao trong người dân.
- Đến nay xã đã xây dựng khai trương được 07/07 làng văn hóa, Trường tiểu học, trường Mầm non đạt chuẩn quốc gia mức độ I. Xã đã xây dựng thành công xã đạt chuẩn quốc gia về y tế.
- Từ nguồn hỗ trợ kinh phí của Đảng và nhà nước, hiện nay nhân dân và cán bộ xã Thiên Phủ đã xây dựng được nhà bia tưởng niệm các anh hùng liệt sỹ đã hi sinh vì nền độc lập, tự do của tổ quốc để những ngày Lễ, tết hàng năm nhân dân và thân nhân đến thắp hương tưởng nhớ công lao của các AHLS.
- Trong các cuộc đấu tranh bảo vệ tổ quốc nhân dân các dân tộc xã Thiên Phủ luôn sẵn sàng chiến đấu bảo vệ quê hương bảo vệ bản làng. Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ và hai cuộc chiến tranh bảo vệ bảo vệ Tổ quốc (bảo vệ biên giới phía Tây nam, phía Bắc) xã nhà có 260 con em tham gia trực tiếp chiến đấu tại các chiến trường. trong đó; chống Pháp 9 người, chống mĩ 75 người, bảo vệ biên giới phía Tây Nam và phía Bắc 176 người. Trong đó có 60 con em các dân tộc xã Thiên phủ đã anh dũng hy sinh để bảo vệ tổ quốc, 25 người đã mang trong mình thương tật nặng.
Về dịch vụ.
Trên địa bàn xã hiện nay đã có chợ để giao thương hàng hóa và một số hộ gia đình đã tận dụng mặt tiền và không gian nhà ở của mình để mở các cửa hiệu tạp hóa các đại lý buôn bán lẻ nhà hàng ăn, uống đa dạng …vv đã đánh dấu sự hình thành và bước đầu tạo cơ sở thúc đẩy kinh tế hàng hóa ngày càng phát triển.
- Về công tác xây dựng nông thôn mới. Trong thời gian qua thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới, với sự chỉ đạo sát sao của các cấp các ngành sự phấn đấu của toàn thể nhân dân trong toàn xã. Xã Thiên Phủ đã đạt được những kết quả đáng phấn khởi, bộ mặt nông thôn được đổi mới đáng kể, chất lượng cuộc sống của nhân dân được nâng lên, đến nay đã có 4/7 bản đạt chuẩn NTM, xã đã hoàn thành 17/19 tiêu chí XDNTM và được huyện chọn xây dựng là xã đạt chuẩn Nông thôn mới năm 2025.
- Trải qua một chặng đường hơn 80 năm xây dựng và phát triển, cùng với sự phát triển của đất nước, quê hương xã Thiên Phủ (Mường Khăng) đang bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, phát triển nhanh trong sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước.
-
Nơi nhận.
- UBND huyện (để b/c);
- Phòng VHTT huyện (để b/c);
-
TTr ĐU, HĐND (b/c);
- CT, các PCT- UBND xã
;
- MTTQ, các ngành, đoàn thể
- 7 bản
- Lưu. VT, VHTT.
|
KT.CHỦ TỊCH
PHÓ CHỦ TỊCH
Hà Văn Thuỷ
|